Làm hoàng đế Tống_Anh_Tông

Tào Thái hậu nhiếp chính

Ngày 2 tháng 5 năm 1063, hoàng tử tức vị hoàng đế, tức là Tống Anh Tông, ra triều với các quan tại Đông Doanh[5]. Anh Tông muốn theo lệ cổ, để ba năm xem xét, cho Hàn Kỳ nhiếp trùng tể, nhưng các đại thần phần đông không nhất trí, đành thôi. Hạ chiếu tôn hoàng hậu làm Hoàng thái hậu. Anh Tông vừa lên ngôi chưa đầy nửa tháng thì lại bệnh nặng, vui buồn thất thường, có nhiều hành động kì lạ. Các quan đại thần cùng đến gặp Thái hậu, xin buông rèm nhiếp chính. Thái hậu tinh thông kinh sử, giải quyết công việc nhanh gọn, nên triều chính vẫn tương đối yên ổn. Tiến phong Hàn Kỳ làm Vệ quốc công, Tăng Công Lượng là Trung thư thị lang kiêm Thượng thư bộ Lễ... Phong hoàng tử Trọng Châm làm An châu quan sát sứ, Quang quốc công; Trọng Củ làm Nhạc An quận công; Trọng Khác là Đại Ninh quận công. Khi ấy bệnh tình của Anh Tông có phần thuyên giảm, Vương Khuê xin Thái hậu trả lại chính sự nhưng cuối cùng việc này không được tiến hành.

Anh Tông hạ chiếu lập Kinh Triệu quận quân Cao thị làm hoàng hậu. Hoàng hậu là cháu chắt của Thị trung Cao Quỳnh, có mẹ là em gái của Tào thái hậu. Năm hoàng hậu 4 tuổi cũng được đưa vào cung nuôi dưỡng cùng với Anh Tông; về sau được ban hôn. Đến đây thì chính vị hoàng hậu[5]. Khi đó cựu tướng Phú Bật cũng hết tang, được bổ dụng Xu mật sứ. Tháng 10 năm đó phong hoàng tử Quang Quốc công Trọng Châm làm Tiết độ sứ Trung Vũ, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, tháng 6 năm sau cải là Dĩnh vương, cải tên là Triệu Húc. Mùa đông, táng Nhân Tông hoàng đế ở Vĩnh Chiêu lăng[4].

Anh Tông kể từ sau khi lâm bệnh, tính khí vui buồn thất thường, thường đánh mắng tả hữu vì lỗi nhỏ khiến trong cung ca thán khắp nơi. Khi đó tên hoạn quan Nhậm Thủ Trung thừa cơ hội, tìm cách gièm pha ly gián hai cung. Lâu ngày thành ra mối hiềm khích khó mà hóa giải được. Một hôm Hoàng thái hậu đem việc này ra khóc với quần thần, Hàn Kì nói là do bệnh nên mới thế, sau này tất khác; trước kia Thái hậu thờ Nhân Tông, nhân đức bao trùm thiên hạ, lúc Ôn Thành hoàng hậu còn sống Thái hậu vẫn nhẫn nhục được; nay tình mẹ con sao chẳng thể bỏ qua, Thái hậu mới dần nguôi ngoai đi. Hôm đó Hàn Kì vào yết kiến Anh Tông. Anh Tông nói luôn

Thái hậu đối với trẫm chưa tận tâm.

Hàn Kì bảo rằng nếu phụ mẫu không hiền minh mà nhi tử vẫn tận hiếu thì mới có thể nên danh thiên cổ.[5] Anh Tông dần tỉnh ngộ. Đầu năm 1064, Anh Tông đến Kinh diên nghe giảng sách, thị giảng Lưu Sưởng đọc đến đoạn Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn thì chắp tay khen ngợi cái hiếu của Thuấn. Anh Tông hoàng đế cảm thấy phân chấn hơn; liền vào cung quỳ mà tạ lỗi với Thái hậu. Từ đó hai cung hòa giải với nhau, mối quan hệ trở lại êm đẹp.

Sự kiện Bộc nghị

Lúc này bệnh tình của Anh Tông đã khỏi hẳn, Hàn Kỳ muốn thái hậu giao lại chính quyền nhưng không tiện nói ra, bèn giả cách xin nghỉ, bảo rằng hoàng đế đủ sức xét việc lại có thái hậu huấn chính thì làm gì cần tể thần nữa. Thái hậu hiểu ý, liền hạ chỉ hết buông rèm. Đó là vào tháng 5 ÂL năm 1064. Anh Tông thân chính, ra lệnh phong Hàn Kỳ làm Thượng thư Hữu bộc xạ, cho mệnh lệnh của thái hậu vẫn xưng là thánh chỉ, nghi vệ cho thái hậu như Chương Minh Hiến Túc thái hậu trước kia[6]. Hàn Kỳ cho đuổi Nhậm Thủ Trung ra Kỳ châu.

Theo ý của Anh Tông, tể thần dâng biểu xin làm lễ truy tôn cho Bộc An Ý vương cùng Tiếu quốc phu nhân Vương thị, Tương quốc phu nhân Hàn thị, Tiêu du huyện quân Nhâm thị. Tri gián viện Tư Mã Quang nói xưa kia Hán Tuyên Đế không truy tôn Lệ thái tử, Hán Quang Vũ Đế không truy tôn Thần Lộc nam đốn quân, đó là lẽ muôn đời vậy. Còn việc xưng hô với Bộc vương như thế nào thì lại phải bàn tiếp. Do Ngụy quốc công Tông Ý không con, Bộc vương không có đích tôn, vì vậy triều đình cho con thứ của Bộc vương là Tông Phác nối chức Bộc quốc công[7]. Giữa năm 1065, Vương Khuê lại dâng tấu nói Bộc vương là anh Nhân Tông thì cư xưng là Hoàng bá phụ là đủ. Lại có lời bàn nên xưng Hoàng bá khảo, Lã Công Trứ bảo ngày xưa Chân Tông đối với Thái Tổ cũng xưng là Hoàng bá khảo, Bộc vương thì sao sánh với Thái Tổ được. Âu Dương Tu dẫn Lễ nghi ra nói nếu về làm con nuôi người khác, thì đối với người sinh ra mình vẫn phải gọi là cha mẹ. Hán Tuyên Đế, Quang Vũ Đế cũng gọi cha là Hoàng khảo. Anh Tông đành cho gác chuyện lại đến khi có điển cố thích hợp mới bàn tiếp. Tư Mã Quang không chấp nhận. Ngự sử Lã Hối, Phạm Thuần Nhân, Lã Đại Phòng liên tục dâng sớ bàn luận, đều thuận theo Vương Khuê nhưng không được phúc đáp. Hàn Kỳ dâng sớ chờ tội, Âu Dương TuTăng Công Lượng đều xin miễn chức, các bên tranh nghị không dứt, kéo dài gần 1 năm.

Mùa thu năm đó, người Hạ cho quân đánh phá Tần Phượng, Kinh Nguyên, quấy nhiễu dân chúng và giết nhiều súc vật. Tư Mã Quang dâng thư xin đem cứu. Đầu năm 1065, triều đình gửi chiếu trách cứ Hạ chủ Lượng Tộ (Hạ Huệ Tông). Vua Hạ không phụng chiếu và đổ tội cho các tướng lĩnh ở vùng biên, không lâu sau lại gây hấn. Lúc này Xu mật phó sứ Vương Trù đã chết, được ban Lễ bộ thượng thư, thụy Trung Giản. Triều đình dùng Phùng Kinh làm An phủ sứ Thiểm Tây lo chống giữ với người Hạ[7].

Đến tháng giêng ÂL năm 1066, Hoàng thái hậu xuống chiếu viết tay, cho rằng đối với Bộc An Ý vương có thể xưng hoàng, phu nhân là hậu, hoàng đế đối với họ xưng là thân nhưng không tôn thụy gì thêm. Anh Tông xuống chiếu từ tạ, một hồi sau mới nhận, tôn Bộc An Ý vương là Bộc An Ý hoàng, Tiếu quốc, Tương quốc và Tiên Du phu nhân xưng là hậu[8]. Sau đó, Lã Hối thấy triều đình không nghe kiến nghị của mình nên dâng sớ chờ tội. Anh Tông cho trả sớ, Lã Hối nói Hàn KỳÂu Dương Tu gây khó dễ cho mình. Cuối cùng Anh Tông theo lời hai vị phụ chính, đày Lã Hối đến Kỳ châu, Phạm Thuần Nhân đến An Châu, Lã Đại Phòng đến Ninh Huyện. Tư Mã QuangLã Công Trứ dâng sớ ngăn việc trục xuất ngôn quan, Anh Tông không nghe. Lã Công Trứ bèn xin ra ngoài, làm quan ở Thái châu. Từ đây, cuộc tranh luận mới chấm dứt.

Tháng 4 năm 1066, Anh Tông bổ nhiệm Tư Mã Quang biên soạn Thông chí, về sau gọi là Tư trị thông giám, gồm 289 quyển chép việc từ thời Chu Uy Liệt vương đến hết đời Hậu Chu. Tư trị thông giám trở thành tác phẩm lịch sử có giá trị vĩ đại của Trung Quốc.

Tháng 10 năm 1066, Hạ Nghị Tông dẫn quân xâm lược thành Đại Thuận và trại Nhu Viễn. Quân Tống chống trả quyết liệt, khiến Hạ chủ bại trận, trúng tên dẫn đến trọng thương, năm sau thì chết.

Qua đời

Cuối năm 1066, Anh Tông xưng tôn hiệu Thể Càn Ứng Lịch Văn Vũ Thánh Hiếu hoàng đế. Lúc này bệnh cũ của ông tái phát, tể tướng Hàn Kỳ vào thăm và xin lập thái tử để yên lòng dân[8]. Khi ấy Anh Tông bệnh không nói được, những mệnh lệnh đều phải tự tay lấy bút mà ghi. Khi các đại thần xin lập tự, Anh Tông gật đầu rồi miễn cưỡng viết tám chữ: Lập Đại Đại vương làm Hoàng thái tử. Hàn Kỳ xin viết kĩ hơn, Anh Tông ghi thêm ba chữ Dĩnh vương Húc rồi cho phát đi[8]. Hàn Kỳ truyền cho Trương Phương Bình đến điện Phúc Ninh thảo chiếu lập Thái tử. Khi đó Anh Tông chỉ còn đủ sức viết thêm chữ Húc rồi cho phát đi.

Ngày Đinh Tị, tháng 1 năm thứ tư Trị Bình, tức ngày 25 tháng 1 năm 1067, Anh Tông qua đời ở điện Phúc Ninh, hưởng dương 34 tuổi[4][9]. Thái tử Triệu Húc lên kế vị, tức là Tống Thần Tông.